Top 10

Top 6 hậu vệ vĩ đại nhất Italia 50 năm qua

Advertisement

Top 6 hậu vệ vĩ đại nhất Italia 50 năm qua

Italia là nơi sản sinh ra những huyền thoại phòng ngự trứ danh giúp họ tạo nên đội tuyển Italia và giải đấu Serie đậm tính chiến thuật và toan tính nhờ hàng thủ vững chắc.

Advertisement

Guiseppe Bergomi

Guiseppe Bergomi chỉ chơi cho Internazionale trong suốt sự nghiệp và giữ kỷ ra sân nhiều nhất cho Inter Milan trong nhiều năm cho đến khi bị vượt qua bởi Javier Zanetti vào tháng 9 năm 2011. ‘Lo Zio’ đã ra mắt đội một Inter Milan năm 1979 khi mới 16 tuổi và giành được Coppa Italia chỉ một mùa sau đó. Ông tiếp tục trải qua 20 mùa giải tiếp theo ở Serie A với Inter nhưng chỉ giành được một Scudetto nhưng lại thành công ở trời Âu với 3 lần giành cúp UEFA cũng như giữ kỷ lục về số lần xuất hiện nhiều nhất trong lịch sử của giải đấu (96).

Với đội tuyển quốc gia Ý, Bergomi đã có 81 lần ra sân trong 16 năm từ 1982 đến 1998 và ra mắt vào năm 1982 khi chỉ mới 18 tuổi 3 tháng (cầu thủ trẻ nhất ra sân cho Ý sau Thế chiến 2). Anh là thành viên của đội hình Italia đoạt World Cup năm 1982, có 3 lần ra sân trong đó có 120 phút đầy đủ trong trận chung kết. Anh cũng tham gia các giải đấu World 1986, 1990 và 1998 và là đội trưởng đưa Italia đến vị trí thứ 3 trên sân nhà vào năm 1990. Đeo bám quyết liệt và nhanh nhẹn, Bergomi là bất khả xâm phạm ở vị trí hậu vệ phải và được đưa vào Đại sảnh bóng đá Ý năm 2016.

Gaetano Scirea

Gaetano Scirea là biểu tượng của hàng phòng ngự huyền thoại của Juventus và Ý trong những năm 1970 và 1980. Ông đã cùng Juventus và Italy gặt hái nhiều thành công trong thời kỳ hoàng kim của bóng đá Ý. Ông có khả năng xoay sở cướp bóng khéo léo và đọc tình huống cực tốt. Ông bắt đầu sự nghiệp với Atalanta vào năm 1972 trong 2 năm trước khi chuyển đến Juventus vào năm 1974 và trở thành huyền thoại bất tử trong 14 năm tiếp theo. Suốt cả sự nghiệp 16 năm của mình, ông không bao giờ nhận thẻ đỏ và cũng đã trải qua 8 mùa giải liên tiếp ở Serie A mà không bị thẻ phạt. Ông cùng Juventus mang về 14 danh hiệu vô địch gồm 7 danh hiệu Serie A, 2 Coppa Italia và một chiếc Cúp châu Âu, 2 UEFA Cup, Siêu cúp UEFA và Cúp Liên lục địa.

Ông ra mắt đội tuyển quốc gia vào năm 1975 và là trụ cột trong 11 năm tiếp theo cho đến khi treo giày vào năm 1986 sau khi có 78 lần ra sân. Với Azzurri, ông đã tham gia 4 giải đấu và được bầu vào đội hình của giải đấu Euro 1980 cũng như 3 kỳ World Cup vào năm 1978, 1982 và 1986. Scirea là một thành viên không thể thiếu trong đội hình vô địch World Cup năm 1982 và được bầu chọn vào đội hình vĩ đại nhất mọi thời đại của Juventus.

Paolo Maldini

Maldini ra mắt AC Milan năm 1985 ở tuổi 17 và cống hiến chỉ mình Rossoneri ở tuổi 41. Anh đã ra mắt đội 1 khi đó có các hào thủ trứ danh như Marco Van Basten, Franco Baresi, Ruud Gullit, Frank Rijkaard, Carlo Ancelotti, Mauro Tasotti. Chủ yếu chơi như một hậu vệ trái, Maldini là một phần của hàng phòng ngự toàn Ý lúc đó của AC Milan với Franco Baresi, Alessandro Costacurta và Mauro Tassotti, Maldini đã giúp AC Milan chinh phục châu Âu và Ý dưới thời HLV Arrigo Sacchi. Sau đó dưới thời Fabio Capello, họ giành được nhiều danh hiệu bao gồm cả kỷ lục 58 trận bất bại liền và xuất hiện trong 3 trận chung kết Champions League liên tiếp. Maldini được bầu làm đội trưởng của AC Milan vào năm 1997 khi Franco Baresi treo giày và ông đã đã đưa Milan chiến thắng trong trận chung kết Champions League 2003 với Juventus. Sự nghiệp 25 năm của anh với AC Milan đã mang về 25 danh hiệu, bao gồm 7 danh hiệu Serie A và 5 Champions League.

Maldives đã ra mắt đội tuyển quốc gia Ý vào năm 1988 ở tuổi 19 và tiếp tục trở thành trụ cột ở Azzurri trong 14 năm tiếp theo với 126 lần (là kỷ lục quốc gia tại thời điểm treo giày, mãi sau khi bị vượt qua bởi  Cannavaro và Buffon). Anh đại diện cho Ý tại tất cả 7 giải đấu quốc tế từ năm 1988 đến 2002 và được bầu chọn vào các đội hình của giải đấu tại World Cup 1990 và 1994 cũng như EURO năm 1988, 1996 và 2000. Ông được bổ nhiệm làm đội trưởng Italia năm 1994 và là một trong 18 cầu thủ đã có hơn 1.000 lần ra sân trong sự nghiệp. Ông đứng thứ 2 trong giải thưởng FIFA World Best năm 1995 và thứ 2 tại Ballon d’Ors năm 1994 và 2003.

Franco Baresi

Franco Baresi đã ra mắt AC Milan vào năm 1977 và tiếp tục trải qua 20 năm thành công rực rỡ với câu lạc bộ quê hương yêu dấu của mình. Anh bắt đầu sự nghiệp với đội trẻ Milan và làm đội trưởng câu lạc bộ năm 1982 khi mới 22 tuổi và đưa Rossoneri trở lại đỉnh cao sau thời kỳ tăm tới với 2 lần xuống hạng ở Serie B 1980 và 1983. Franco Baresi là trung tâm của hàng phòng ngự trong đội hình chinh phục của Milan trong thời kỳ này khi thống trị châu Âu dưới thời Ariggo Sacchi và sau này là Fabio Capello. Dưới sự chỉ huy của anh, Milan đã có một hàng thủ chắc chắn, giành chức vô địch Serie A năm 1988 với chỉ 14 bàn thua và họ giành được 3 Scudetto và Super Coppa Italia liên tiếp trong khoảng thời gian từ 1992 đến 1994 (giành chức vô địch Serie A năm 1992 với mạch 58 trận bất bại). Họ cũng đã giành được các cúp châu Âu liên tiếp vào năm 1989 và 1990 và tham gia 3 trận chung kết Champions League liên tiếp. Baresi dù nhỏ bé nhưng lại giỏi theo kèm và đọc trận đấu xuất sắc, ông treo giày vào cuối mùa giải 1996-1997 với tổng số 719 lần ra sân, ghi được 33 bàn thắng. Khi treo giày, AC Milan đã treo chiếc áo số 6 để vinh danh những đóng góp xuất sắc của ông.

Với Ý, Baresi đã có tổng cộng 81 lần ra sân từ 1982 đến 1994 và là thành viên vô địch World Cup 1982, anh đã rời khỏi đội hình World Cup năm 1986 với nhiều tranh cãi rồi lại là trụ cột trong EURO 1988 và World Cup 1990 trên sân nhà, nơi anh được ghi tên vào đội hình của giải đấu khi Ý kết thúc ở vị trí thứ 3. Trong vai trò Á quân, anh đưa tuyển Italia vào chung kết World Cup 1994 và là một trong 7 cầu thủ giành được đủ huy chương Vàng, Bạc và Đồng tại World Cup.

Giacinto Facchetti

Facchetti đã được HLVhuyền thoại Helenio Herrera cho ra mắt Inter Milan vào năm 1961 và sau đó với tư cách là đội trưởng của đội bóng trong thời kỳ vinh quang của ‘Grande Inter’ những năm 1960. Facchetti là một trong những hậu vệ tấn công đầu tiên ở châu Âu cùng khả năng phòng thủ cứng rắn và rất quan trọng trong sự thành công của hệ thống ‘catenaccio’ do Herrera triển khai, tập trung vào sự phòng thủ vững chắc cùng phản công hiệu quả. Ông đã ghi 10 bàn ở Serie A mùa 1966 (là con số kỷ lục cho một hậu vệ trong gần 40 năm cho đến khi nó bị phá bởi Materazzi vào năm 2001). Anh đã giã từ bóng đá với Inter Milan vào cuối mùa giải 1977/1978 với 679 lần ra sân, ghi 75 bàn và giành tổng cộng 9 danh hiệu.

Trên trường quốc tế, Facchetti đại diện cho Ý trong 14 năm từ 1963 đến 1977, xuất hiện tại 3 kỳ World Cup và trở thành đội trưởng của Azzurri trong nhiều năm, bao gồm cả chiến thắng EURO năm 1968 trên sân nhà và Á quân World Cup 1970 ở Mexico, được bầu vào đội hình All-Star của cả 2 giải đấu. Ông đã có 94 lần khoác áo đội tuyển Ý, đó là một kỷ lục quốc gia cho đến khi nó bị vượt qua bởi thủ môn huyền thoại Dino Zoff. Ông suýt trở thành hậu vệ đầu tiên giành Quả bóng Vàng năm 1965, đứng thứ 2 sau Eusebio khi đưa Inter đến cú ăn 3 (chỉ thua trong trận chung kết Coppa Italia trước Juventus).

Fabio Cannavaro

Hậu vệ duy nhất đã giành giải thưởng FIFA World Best và là người thứ 3 giành Quả bóng Vàng (sau Franz Beckenbauer và Mathias Sammer) đã mang về cho đội tuyển Ý vinh quang World Cup 2006. Biệt danh là “Il Muro di Berlino” (“Bức tường Berlin”) nhờ khả năng phòng ngự kín kẽ, Fabio Cannavaro bắt đầu sự nghiệp với câu lạc bộ thời thơ ấu vào năm 1992. Anh ấy đã trở nên nổi bật trong những buổi tập khi giành được bóng từ Diego Maradona, cầu thủ ngôi sao của Napoli. Cannavaro trở thành chốt chặn ở hàng phòng ngự của Napoli vào đầu mùa giải 1993/1994 nhưng đã bị bán cho Parma vào năm 1995 do những khó khăn tài chính của câu lạc bộ. Tại Parma, Fabio tiếp tục củng cố danh tiếng của mình khi trở thành đội trưởng của câu lạc bộ và giúp Parma trở thành một thế lực bóng đá Ý. Anh rời Parma vào năm 2002 để đến Internazionale với hơn 250 bàn trên mọi đấu trường, ghi 5 bàn và giành được nhiều giải thưởng cá nhân nhưng câu lạc bộ đã không giành được bất kỳ danh hiệu nào. Cannavaro rời Inter để đến Juventus năm 2004 chỉ sau 50 lần ra sân cho Nerrazzurri, tại Juventus, Cannavaro đã giành Scudetto đầu tiên trong sự nghiệp năm 2005 và 2006, mặc dù sau đó đã bị thu hồi và Juventus bị giáng xuống Serie B do liên quan đến vụ bê bối Calciopolli năm 2006. Anh chuyển đến Real Madrid năm 2007 và 2008 và trở lại Juventus vào năm 2009, nhưng chỉ 1 mùa giải sau đó qua Ả Rập Saudi và chấm dứt sự nghiệp tại Al Ain.

Trên trường quốc tế, Cannavaro đại diện cho Azurri trong 13 năm từ 1997 đến 2010 và là cầu thủ ra sân nhiều thứ 2 với 136 lần chỉ sau Gianluigi Buffon. Anh cũng là đội trưởng Italia trong 8 năm sau khi Paulo Maldini treo giày sau World Cup 2002. Anh cùng Nesta và Maldini tạo nên hàng phòng ngự 3 người của Ý tại EURO 2000 khi Azurri thua Pháp tại chung kết. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất của anh là trong trận thứ 100 cho tuyển Ý đã giúp Italia đánh bại Pháp ở chung kết World Cup 2006 tại Đức. Cannavaro cùng với Buffon là 2cầu thủ Ý duy nhất góp mặt trong tất cả các phút của mọi trận đấu ở World Cup 2006 nhưng tiếc chỉ về thứ 2 sau Zidane trong giải thưởng Quả bóng vàng World Cup. Anh cũng được trao giải Quả bóng Vàng và Cầu thủ hay nhất FIFA năm 2006.

Advertisement